Với lợi thế đa dạng sinh học giống vật nuôi bản địa, trình độ chăn nuôi đã được cải thiện, sự hội nhập và đầu tư của các thành phần kinh tế vào chăn nuôi nói chung và sản xuất giống gia cầm nói riêng ngày càng nhiều, chăn nuôi gia cầm Việt Nam đang phát triển theo hướng chuyên nghiệp hóa.
- Tổng quan về ngành chăn nuôi gia cầm giai đoạn 2018-2023 (P1)
- Tổng quan về ngành chăn nuôi gia cầm giai đoạn 2018-2023 (P2): Thị trường bấp bênh
Tổng số hộ chăn nuôi gà tăng từ 8,662 triệu hộ (năm 2021) lên 9,018 triệu hộ (năm 2022); trgàong đó số hộ nuôi gà trên 4.000 con tăng từ 7.418 cơ sở (năm 2021) lên 7.799 cơ sở (năm 2022).
Sản xuất giống gia cầm tại Công ty Minh Dư (Bình Định)
Về nhu cầu giống
Hiện nay, nhu cầu giống sản xuất rất lớn, cần phải duy trì đàn giống: gà bố mẹ 5-5,5 triệu con sinh sản, 138-140 ngàn con gà ông bà sinh sản, nhu cầu giống gà phục vụ chăn nuôi thương phẩm hằng năm khoảng 700-750 triệu con/năm; trong đó gà công nghiệp lông trắng khoảng 25-28%, gà lông màu từ 72-75%; đàn thủy cầm ông bà 70-72 ngàn con mái sinh sản và 2,3-2,4 triệu con thủy cầm bố mẹ sinh sản.
Về khả năng cung cấp nguồn giống
Hiện nay, cả nước có trên 200 đơn vị nuôi đàn gà dòng thuần và ông bà (06 đơn vị sự nghiệp, gần 200 doanh nghiệp trong nước và FDI), với hàng nghìn hộ gia đình nuôi giữ 4-5 triệu con gà giống. Các cơ sở nhân giống gà tập trung chủ yếu ở vùng Đông Nam bộ, Duyên hải miền Trung và Đồng bằng sông Hồng.
Giống gà công nghiệp lông trắng chủ yếu do các doanh nghiệp FDI sản xuất và cung ứng. Giống gà lông màu khoảng 70% do doanh nghiệp trong nước và các hộ chăn nuôi cung ứng, các doanh nghiệp FDI cung ứng khoảng 30%.
Đàn giống gà lông màu dòng thuần do các đơn vị của Bộ Nông nghiệp và PTNT nuôi giữ cung ứng gà ông bà và bố mẹ chiếm khoảng 40%, các doanh nghiệp nhập khẩu khoảng 30%, 30% còn lại do các hộ chăn nuôi tự nhân giống. Gần 90% giống gà, 40% giống vịt phục vụ nuôi thương phẩm do doanh nghiệp tư nhân và hộ dân sản xuất, còn lại là do các cơ sở thuộc sở hữu vốn nhà nước cung ứng cho sản xuất. Điển hình là các Công ty: C.P Việt Nam, Japfa Comfeed, Emivest, Dabaco, Minh Dư, Cao Khanh, Lượng Huệ, Grimaud Việt Nam…
Khoảng 10% giống gà và 60% giống vịt được cung ứng từ đơn vị sự nghiệp nhà nước như: Trung tâm Nghiên cứu gia cầm Thụy Phương, Trung tâm Nghiên cứu vịt Đại Xuyên, Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển chăn nuôi VIGOVA.
Về năng suất, chất lượng đàn giống
Các giống gà bản địa có tỷ lệ nuôi sống trước đây chỉ đạt 70-80%, nay đã nâng lên được 90-95%; năng suất trứng trước đây 70-80 quả/mái/năm, nay đã tăng lên từ 110 - 130 quả, giảm TTTA/kg tăng khối lượng 10 - 15%. Nhiều giống có năng suất và chất lượng cao được nhập vào Việt Nam trên cơ sở đó đã chọn tạo được một số dòng, giống phù hợp với vùng sinh thái.
Các dòng gà hướng trứng được chọn tạo có năng suất trứng/mái/72 tuần tuổi đạt 240 - 280 quả, TTTA/10 quả trứng 1,60-1,80kg . So với một số giống gà siêu trứng trên thế giới (như Gold-line 54, Brown Nick, ISA Brown…) có năng suất trứng từ 250-300 quả/mái/năm thì các giống gà hướng trứng do Việt Nam chọn tạo cũng đạt tương đương nhưng chất lượng trứng thì cao hơn.
Việt Nam đã chọn tạo các dòng gà lông màu nuôi sinh sản có năng suất trứng/mái/68 tuần tuổi đạt 170-180 quả/mái, cao hơn giống gà bản địa từ 20 đến 50 quả; gà nuôi thịt có khối lượng cơ thể cao hơn các giống gà bản địa từ 0,4 đến 0,6 kg/con.
So với một số giống gà lông màu trên thế giới (Redbro, Kabir, Lương Phượng…) thì một số chỉ tiêu kinh tế kĩ thuật của các giống do Việt Nam chọn tạo là tương đương nhưng TTTA/kg tăng khối lượng cao hơn.
Các dòng vịt hướng trứng có năng suất trứng 280-290 quả/mái/năm, cao hơn các giống vịt Khaki Campbell, CV 2000 Layer, vịt Triết Giang… trên thế giới trung bình từ 10-15 quả/mái. Các dòng vịt hướng thịt có khối lượng cơ thể đạt 3,5-3,6kg/con/8 tuần tuổi, TTTA/kg tăng khối lượng đạt 2,7-2,8kg, vịt có tỷ lệ cơ ức cao. Đặc biệt, nước ta đã chọn tạo được hai dòng vịt biển có khả năng chăn nuôi trong điều kiện nước mặn và nước lợ.
Bên cạnh gà công nghiệp lông trắng và các giống gà lông màu cao sản nhập nội, một số tổ hợp lai có năng suất cao chọn tạo từ các giống gà nhập ngoại được thị trường ưa chuộng như:
+ Các tổ hợp gà lai lông màu: LV, VP1, VP2, VP3, VP4, VP5, TP1, TP2, TP3, TP4, TN1, TN2 và TN3 cho khối lượng ở 8 tuần tuổi của con mái, trống đạt từ 902,7 đến 1161,4 gam, năng suất trứng 64 tuần tuổi 156 -186 quả và tiêu tốn 1,89 - 2,5 kg thức ăn/10 trứng.
+ Các giống gà nội có chất lượng cao như gà ri, gà Mía, Ninh Hòa, ri cải tiến…. có năng suất cao hơn trước đây, với tỷ lệ nuôi sống đạt từ 90-95%, năng suất trứng tăng 25,4- 53,8%, giảm tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lượng 10 -15% đã chiếm lĩnh hầu hết thị trường phía Bắc và trung Bộ.
+ Các dòng gà hướng trứng gồm Ai Cập, HA1, HA2, VCN/BT-AG1, GT1, GT2, GT3, VCN-G15, RA, GT, GT12, VCZ16 có năng suất trứng 200-269 quả/mái/72 tuần tuổi, tiêu tốn thức ăn/10 trứng từ 1,73-2,30 kg đang được nuôi phổ biến ở nước ta.
+ Các giống vịt hướng trứng như vịt TC có năng suất trứng 280-290 quả/mái/năm (hiện nay cao nhất thế giới), vịt Cỏ (C1 và C2) là giống vịt nội rất quý, năng suất trứng đạt 250-260 quả/mái/năm, khối lượng trứng 70g/quả.
+ Các giống vịt hướng thịt: các dòng vịt T5, T6, V5, V6, V52, V57, TS132, TS142, CT1, CT2, CT3, CT4, vịt có tỷ lệ thịt lườn cao, tăng khối lượng nhanh, vịt trống 3,69-3,72 kg, vịt mái: 3,33-3,34 kg ở 24 tuần tuổi, vịt thương phẩm 49 ngày tuổi đạt 3,2-3,5kg.
Giống gia cầm tại Tập đoàn Dabaco
Hiện nay, giống gia cầm (đặc biệt đàn giống cấp cụ kỵ, ông bà của gà, vịt, ngan) vẫn phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu. Đa số các cơ sở sản xuất giống chưa có giải pháp, chiến lược chọn, nhân giống theo hướng nâng cao năng suất và phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam nên hiện tượng thoái hóa giống do đồng huyết, do áp lực chọn lọc thấp vẫn khá phổ biến (59,7% đối với gà và 15,7% đối với thuỷ cầm được người dân sử dụng đàn thương phẩm làm bố mẹ để nhân giống). Chất lượng giống chưa được kiểm định, đánh giá và định giá theo giá trị giống theo quy định của Luật Chăn nuôi và các văn bản hướng dẫn, Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa, Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật.
Trích: Báo cáo của Cục Chăn nuôi ngày 27/4/2023