Cùng Phượt - Sơn La nằm ở phía Tây Bắc, cách Hà Nội hơn 300km theo quốc lộ 6 với đường đi đã được nâng cấp rất thuận tiện. Đến với Sơn La, du khách sẽ được ngắm nhìn cảnh núi non hùng vĩ, khám phá về giá trị văn hoá đặc sắc của các dân tộc vùng Tây Bắc, cuốn hút trong vòng xoè, ngây ngất trong men rượu cần… Là một trong những địa phương có nhiều tiềm năng và lợi thế để phát triển du lịch và nằm ở vị trí trung chuyển của hành lang du lịch qua miền Tây Bắc vì vậy Sơn La rất thuận lợi trong liên kết vùng phát triển du lịch. Với diện tích tự nhiên rộng lớn có nguồn tài nguyên du lịch dồi dào về địa hình, cảnh quan, khí hậu, hệ thống di tích lịch sử, di sản văn hóa đa dạng và thủy điện lớn nhất Đông Nam Á. Một vài kinh nghiệm du lịch Sơn La mới cập nhật tháng 10/2024 cho các bạn tham khảo.
Sơn La nằm ở Trung tâm của vùng Tây Bắc Việt Nam với diện tích đứng thứ 3 trong số 63 tỉnh thành phố. Phía Bắc giáp với các tỉnh Lai Châu, Yên Bái; phía Đông giáp với các tỉnh Phú Thọ, Hòa Bình; phía Tây giáp tỉnh Điện Biên; phía Nam giáp với CHDCND Lào và Thanh Hóa. Sơn La có đường biên giới quốc gia dài 250 km, chiều dài giáp ranh với các tỉnh khác là 628 km. Toàn tỉnh có 12 đơn vị hành chính (1 thành phố, 11 huyện) với 12 dân tộc.
Với dân số hơn 1 triệu người, cộng đồng các dân tộc sinh sống tại Sơn La bao gồm 12 dân tộc anh em, trong đó dân tộc thái chiếm đa số, tiếp đến là Kinh, Mông, Mường, Xinh Mun, Khơ Mú, Kháng, La Ha, Dao, Hoa, Lào, Tày. Tỉnh này có 3 cửa khẩu với Lào là Chiềng Khương và cửa khẩu quốc tế Pa Háng,cửa khẩu quốc gia Nà Cài. Sơn La có độ cao trung bình 600 - 700m so với mặt biển, địa hình chia cắt sâu và mạnh, 97% diện tích tự nhiên thuộc lưu vực sông Đà, sông Mã, có 2 cao nguyên là Cao nguyên Mộc Châu và Cao nguyên Sơn La, địa hình tương đối bằng phẳng. Cùng với các tỉnh Hòa Bình, Điện Biên, Lai Châu, Sơn La là mái nhà của đồng bằng Bắc Bộ.
Nắng sớm ở Mộc Châu (Ảnh - fongzooz)Phần lớn tỉnh Sơn La ngày nay (gồm thành phố Sơn La, huyện Mộc Châu, Yên Châu, Mai Sơn, Sông Mã, Thuận Châu) trước năm 1479 là lãnh thổ của vương quốc Bồn Man (gồm Tương Dương, Kỳ Sơn của Nghệ An, Quan Hoa, Quan Sơn, Mường Lát của Thanh Hóa, tỉnh Hủa Phan của Lào và phần lớn Sơn La). Năm 1479, Sơn La chính thức được sáp nhập vào Đại Việt thời vua Lê Thánh Tông và thuộc Thừa tuyên xứ Hưng Hóa.
Sơn La có khí hậu cận nhiệt đới ẩm vùng núi, mùa đông phi nhiệt đới lạnh khô, mùa hè nóng ẩm, mưa nhiều. Do địa hình bị chia cắt sâu và mạnh nên hình thành nhiều tiểu vùng khí hậu, cho phép phát triển một nền sản xuất nông - lâm nghiệp phong phú. Vùng cao nguyên Mộc Châu phù hợp với cây trồng và vật nuôi vùng ôn đới. Vùng dọc sông Đà phù hợp với cây rừng nhiệt đới xanh quanh năm. Du lịch Sơn La trong những năm gần đây thu hút được rất nhiều người quan tâm bởi các thắng cảnh đẹp như: Mộc Châu, Tà Xùa, một số tuyến du lịch lòng hồ giữa Sơn La và Hòa Bình.
Thuộc vùng Tây Bắc, mùa mưa của Sơn La hàng năm thường rơi vào dịp hè (khoảng từ tháng 6-9), thời điểm này dưới ảnh hưởng của những cơn mưa đột ngột lớn thường xảy ra các hiện tượng lũ quét ở vùng cao, nếu đi vào thời gian này các bạn hết sức chú ý theo dõi thời tiết để có phương án đảm bảo an toàn.
Nằm ngay trên trục đường QL6 nên việc di chuyển lên Mộc Châu từ Hà Nội khá đơn giản. Các bạn có thể đi theo đường đại lộ Thăng Long rồi đi cao tốc mới lên Tp Hòa Bình, từ đây tiếp tục bám QL6 khoảng 120km nữa sẽ lên tới Mộc Châu.
Từ Hà Nội, các bạn đi theo hướng Quốc lộ 32 đi Nhổn lên Thị xã Sơn Tây, đi qua cầu Trung Hà rồi đi Thanh Sơn, Thu Cúc. Đến ngã 3 Thu Cúc các bạn đi Phù Yên rồi sẽ tới Bắc Yên. Từ Bắc Yên lên Tà Xùa còn khoảng 15km nữa.
Nếu muốn đi về bằng 2 đường khác nhau, các bạn có thể đi thẳng Tà Xùa sang Trạm Tấu, không cần quay lại Bắc Yên. Đường này khá dốc nhưng do đi xuống nên cũng đỡ hơn. Trên đường từ Trạm Tấu về lại Hà Nội sẽ đi qua Nghĩa Lộ, các bạn nếu có thời gian có thể dành thêm một ngày ở đây để khám phá Nghĩa Lộ trước khi về lại Hà Nội.
Từ Hà Nội bạn có thể di chuyển tới Sơn La bằng ô tô giường nằm, các tuyến xe xuất phát hàng ngày tại Bến xe Mỹ Đình hoặc Bến xe phía sau nhà khách Sơn La (378 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân). Các xe giường nằm xuất phát tại Mỹ Đình vào khoảng 19-20h hàng ngày, thời gian lên tới Sơn La khoảng 7-8h sáng hôm sau (tùy điều kiện thời tiết và tốc độ của mỗi nhà xe).
Xem thêm bài viết : Xe khách chất lượng cao đi Sơn La (Cập nhật 10/2024)
Ngoài ra, do nằm trên tuyến quốc lộ 6 nên các bạn có thêm một lựa chọn nữa là mua vé các tuyến xe đi Điện Biên, các tuyến xe này đều đi qua Sơn La, có điều do xuất phát khá sớm nên xe đến Sơn La thường vào nửa đêm.
Trên toàn bộ hầu hết các huyện của tỉnh Sơn La hệ thống lưu trú khách sạn nhà nghỉ đều có tuy nhiên tại những điểm tập trung thu hút khách du lịch như Mộc Châu, Tà Xùa … chủ yếu là những nhà nghỉ bình dân, chỉ phù hợp với đối tượng các bạn trẻ đi phượt, chưa thể đáp ứng được nhu cầu cũng như điều kiện chất lượng để phát triển các tour du lịch hướng tới các đối tượng khác.
Xem thêm bài viết : Khách sạn nhà nghỉ tại Sơn La (Cập nhật 10/2024)
Một vài năm gần đây, nhờ nắm bắt được nhu cầu mà rất nhiều các hình thức du lịch cộng đồng kết hợp với ăn nghỉ homestay tại nhà dân đã phát triển khá mạnh, hình thức này còn thu hút thêm được nhóm đối tượng là khách du lịch nước ngoài.
Xem thêm bài viết: Các homestay ở Sơn La (Cập nhật 10/2024)
Du lịch Sông Đà là đến với các công trình thế kỷ, khám phá thời kỳ tiền sử của con người qua các di chỉ khảo cổ, đến với cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ, cảnh núi cao, sông rộng, rừng xanh ngút ngàn, thác đổ, khung cảnh hoang sơ, đến với những con người thật thà, mến khách, nền văn hóa đặc sắc. Sông Đà chảy qua tỉnh Sơn La dài 280 km với 32 phụ lưu lớn nhỏ. Từ ngàn xưa sông Đà là con đường thông thương giữa nhân dân các dân tộc Sơn La nói riêng, nhân dân dân tộc Tây Bắc nói chung với miền xuôi.
Ngược dòng sông Đà, theo con đường của các đoàn thuyền buôn từ Chợ Bờ du khách sẽ đến bến Vạn Yên, bến Tà Hộc, và bến Tạ Bú - điểm khởi công công trình thủy điện Sơn La. Dọc theo chợ Bờ đến Tạ Bú là vùng hồ thủy điện Hòa Bình, là nơi có nhiều hang động đá có giá trị khảo cổ học, bởi trong hang người ta đã phát hiện những mảnh tước đá, rìu đá, hòn kê, hòn mài (hang Tắng, bản Bông Lan, xã Đá Đỏ, huyện Phù Yên). Dọc bờ sông Đà du khách sẽ được khám phá đời sống văn hóa các dân tộc Thái, Mường, Khơ Mú, La Ha, Xinh Mun, Dao. Mỗi dân tộc đều có những bản sắc văn hóa, phong tục tập quán riêng nhưng họ cũng có đặc điểm chung của người dân tộc đó là tính cách thật thà và mến khách, sống hòa thuận, dễ dàng bắt gặp họ tụ họp trong những phiên chợ nổi trên sông Đà làm cho vùng sông nước thêm náo nhiệt hấp dẫn. Vào chính phiên chợ, các chàng trai, cô gái trong những trang phục mới đầy màu sắc nườm nượp trên bến, dưới thuyền làm sống động phiên chợ. Lưu lại qua đêm dưới mái nhà sàn ấm cúng của các dân tộc nơi đây, du khách sẽ được thưởng thức những đặc sản dân tộc, ngây ngất trong men ngọt rượu cần, hòa đồng trong vòng xòe, nghe người già kể những truyền thuyết, huyền thoại Sông Đà. Vùng hồ sông Đà là điểm dừng chân lý tưởng trong hành trình du lịch Tây Bắc của du khách.
Bảo tàng Sơn La nằm trong khuôn viên di tích lịch sử Bảo tàng và Nhà tù Sơn La được thực dân Pháp xây dựng năm 1908. Bảo tàng chủ yếu trưng bày nội dung về dân tộc, là nơi lưu giữ và trưng bày hàng ngàn di vật từ thời tiền sử, sơ sử, những hiện vật phản ảnh nét văn hóa đặc sắc của 12 dân tộc anh em sống ở Sơn La. Đặc biệt, tại đây còn lưu giữ được bộ sưu tập sách chữ Thái cổ, Dao cổ với gần 1000 cuốn thuộc các thể loại như sử thi, trường ca, truyện thơ dân gian…
Nhà tù Sơn La do thực dân Pháp xây dựng năm 1908 với diện tích ban đầu là 500 m2. Nhà tù xây dựng khá kiên cố: tường được xây dựng bằng đá lẫn gạch, mái lợp tôn, không có trần, giường nằm cho tù nhân cũng được xây bằng đá, mặt láng xi măng, mép ngoài được gắn hệ thống cùm chân dọc theo chiều dài của sàn. Trong mỗi phòng giam đều có hố xí nổi được xây cao hơn sàn nằm, không có nắp đậy, không có nước dội, không được vệ sinh thường xuyên. Với lối thiết kế như vậy, mùa hè những đợt gió Lào của vùng Tây Bắc gây nên cái nóng như thiêu như đốt, những đợt sương muối tạo ra cái lạnh giá, rét thấu xương thịt vào mùa đông cộng với môi trường ô nhiễm ở mỗi phòng giam đã làm bệnh tật phát sinh và lây lan rất nhanh chóng trong tù nhân.
Năm 1930 phong trào đấu tranh chống Pháp dâng cao đã làm kẻ địch bất ngờ, chúng lồng lộn tìm đủ mọi cách đàn áp, bắt bớ những người Việt Nam yêu nước hòng dập tắt phong trào cách mạng. Mặt khác tăng cường xây dựng và mở rộng thêm hệ thống nhà tù trong cả nước trong đó chúng đặc biệt chú ý đến nhà tù Sơn La. Năm 1940, Nhà tù Sơn La được mở rộng thêm một trại giam lớn để giam thêm tù nhân và đưa một số tù nhân nữ lên Sơn La nhưng âm mưu đó đã không thực hiện được.
Xem thêm bài viết : Một số hình ảnh về Di tích nhà tù Sơn La
Suối nước nóng bản Mòng thuộc bản Mòng, xã Hua La nằm cách trung tâm thành phố khoảng 7km. Trong những năm gần đây khu vực này đã và đang trở thành một địa chỉ quen thuộc của nhiều du khách trong nước và quốc tế. Dòng suối khoáng với nhiệt độ từ 36oC đến 38oC, với các đặc tính lý hóa, thành phần khoáng chất tự nhiên rất tốt cho việc chữa trị một số bệnh ngoài da, thấp khớp, thần kinh, tim mạch. Trước năm 1997, dịch vụ tắm nước nóng chỉ là hình thức tự phát do một số hộ dân đầu tư xây bể tắm công cộng phục vụ người dân. Từ năm 1997 đến nay đã được HTX dịch vụ thương mại Hua La khai thác theo hình thức dịch vụ với những phòng tắm được thiết kế, trang trí hợp lý, sạch sẽ, vệ sinh.
Hiện nay có gần 20 hộ gia đình kinh doanh dịch vụ tắm suối khoáng nóng. Mỗi hộ gia đình là một nếp nhà sàn truyền thống của dân tộc Thái và một khu dịch vụ phòng tắm được thiết kế những bồn tắm rộng rãi, khoa học sẽ làm cho du khách thực sự thoải mái; Hệ thống bồn tắm rất đa dạng, có bồn tắm dành cho cá nhân, có bồn tắm giành cho gia đình, du khách sẽ thật sự thoải mái khi được ngâm mình trong bồn tắm khoáng với thời gian theo ý thích của từng cá nhân. Ngoài dịch vụ tắm nước nóng, du khách tới đây có thể câu cá thư giãn hoặc trải nghiệm cuộc sống đời thường cùng những người dân địa phương. Hoặc tận hưởng những món ăn truyền thống đặc trưng được tẩm ướp công phu bằng nhiều gia vị đang được nướng trên bếp lửa hồng.
Đến với bản Mòong, ngồi trong những nếp nhà sàn truyền thống, quây quần quanh mâm cơm của dân tộc Thái, thưởng thức các món ăn đặc trưng: Cá nướng, gà nướng, thịt hun khói, cơm lam, các món nộm rau rừng, chấm cùng “chẳm chéo”- một thứ đồ chấm của người Thái. Những món ăn tưởng chừng đơn giản nhưng khi thưởng thức và cùng trải nghiệm chắc rằng du khách sẽ phần nào cảm nhận được sự khéo léo, đảm đang của người phụ nữ Thái trong việc chế biến món ăn. Khi đêm về, du khách được ngồi quây quần bên bếp lửa hồng vào mùa đông hoặc tụ họp ngoài sàn ngắm trăng vào mùa hè, để cùng nhau nghe những làn điệu dân ca trầm bổng thiết tha do các thiết nữ thể hiện hoặc tiếng sáo véo von của các chàng trai gọi bạn tình, đâu đó sập sình trong điệu múa xòe “ Inh lả ơi”…
Chiềng Cọ là một xã của Tp Sơn La với gần 800 ha trồng mận, chủ yếu là mận tam hoa và mận hậu. Khu vực này mỗi dịp xuân về là một trong những địa điểm chụp ảnh hoa mận đẹp được du khách trong và ngoài tỉnh Sơn La tìm đến.
Hang Thẩm Tét Toòng cách trung tâm Tp Sơn La khoảng 2 km về hướng Mường Lát, Chiềng An nằm yên bình trên tỉnh lộ bên cạnh Chiềng Phom, Chiềng Hồ.
Hoang sơ và chưa có đơn vị nào khai thác du lịch song đây là điểm đến của rất nhiều bạn trẻ người Kinh, người Thái ở Tp Sơn La cũng như các xã, huyện trong tỉnh. Ba bạn trẻ ở địa phương chúng tôi gặp lúc khám phá hang cho biết: “Chưa ai đi hết Thẩm Tét Tòng nên không biết hang dài bao nhiêu, chỉ đi độ hơn một vài giờ thì mọi người đã trở ra…”.
Tại trung tâm TP Sơn La có một di tích lịch sử - văn hóa, đó là văn bia “Quế Lâm Ngự Chế”, bút tích của một bậc hùng tài, đại lược - Vua Lê Thái Tông. Vào tháng 5 năm 1440, sau khi nhà Vua cùng các quân sĩ đi chinh phạt quân phiến loạn vùng Tây Bắc và nghỉ chân tại tại động La (địa phương gọi là Thẩm Ké) cảm xúc trước cảnh đẹp và khung cảnh bình yên nơi đây nhà Vua đã viết một bài thơ “Quế Lâm Ngự Chế” được khắc trên vách đá thẳng đứng trên cửa động. Bài thơ có 140 chữ Hán tạm dịch như sau:
“Nghĩ đến người xa đêm khổ tâm Thổ tù sao lại dám quên thân? Thế gian đã có anh hùng chúa Thiên hạ ai tha kẻ nghịch thân Đường xá khó khăn đừng cậy hiểm Hang cùng đã ấm áp hơi xuân Yên được dân lành nhơ nhớp hết Dân xa được hưởng tấm lòng nhân”
Địa danh Tà Xùa được các bạn trẻ yêu thích du lịch trong thời gian gần đây nhắc tới là một dãy núi nhỏ hơn thuộc huyện Bắc Yên. Bốn bề bao bọc bởi những dãy núi cao nên thung lũng Tà Xùa luôn xuất hiện mây mù dày đặc, những dải mây cuồn cuộn như cánh sóng đánh ập vào vách núi, tạo nên một biển mây đẹp ngỡ ngàng.
Xem thêm bài viết: Kinh nghiệm du lịch Tà Xùa săn mây (Cập nhật 10/2024)
Tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” do nhà văn Tô Hoài viết năm 1952 được xây dựng từ những nguyên mẫu có thật trong đời sống xã hội thời bấy giờ ở Tường Sơn, Châu Phù Yên (cũ) thuộc huyện vùng cao Bắc Yên, ngày nay.
Xã Hồng Ngài giản dị giữa thung lũng xanh. Vào xã hiện còn vài km đường đất. Đến mùa mưa cũng làm nản lòng nhiều tay lái lạ. Hồng Ngài hôm nay đã khác rất nhiều so với trước kia. Phiên chợ họp ríu rít đông đảo bà con dân tộc. Mùa táo mèo, đâu đâu cũng thơm phức hương táo quyến rũ. Vào Hồng Ngài, bạn nên nhờ dân bản chỉ đường lên thăm hang A Phủ, được xem là nơi vợ chồng A Phủ từng trốn khỏi ách của cha con thống lý Pá Tra. (Gọi là hang A Phủ bởi trong phim có cảnh quay A Phủ và Mỵ cùng du kích trốn vào hang).
Đường lên xã Xím Vàng như dải lụa vắt ngang núi non trùng điệp, thi thoảng có sương giăng bảng lảng làm cho phong cảnh nơi đây trở nên huyền ảo, cảm nhận rõ hơn tiết trời thu se lạnh. Đến gần trung tâm xã, những thửa ruộng bậc thang trập trùng, uốn lượn như những cơn sóng vàng óng ả trên các sườn đồi hay dưới thung lũng. Ruộng bậc thang đẹp nhất là ở bản Háng Gò Bua, Sồng Chống, Cúa Mang, trên các triền đồi trập trùng nối tiếp nhau đến ngút tầm mắt, lúa uốn câu, trĩu nặng, phủ kín một màu vàng óng ả, thấp thoáng giữa cánh đồng là những chòi gỗ nhỏ canh lúa, tạo thành bức tranh phong cảnh hữu tình.
Sân bay Nà Sản là một sân bay ở huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La, vùng Tây Bắc Việt Nam. Sân bay nằm trên Quốc lộ 6, cách thành phố Sơn La khoảng 20 km về phía Nam. Năm 2004, sân bay được “tạm đóng cửa để nâng cấp” nhưng đến nay vẫn chưa mở cửa hoạt động trở lại.
Sân bay Nà Sản được người Pháp xây dựng vào khoảng năm 1950, phục vụ cho nhu cầu đi lại của những người thực dân Pháp, sau khi họ chiếm lại được quyền kiểm soát được vùng Sơn La từ tay Việt Minh. Ban đầu, sân bay có một đường băng ngắn với nền đất nện; về sau được mở rộng kéo dài thêm và có nền lát ghi sắt, có thể đáp ứng cho loại máy bay Dakota cất và hạ cánh.
Sau năm 1954, sân bay Nà Sản bị bỏ hoang một thời gian. Mãi đến đầu thập niên 1960, chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới quyết định khôi phục lại hoạt động của sân bay nhằm phục vụ nhu cầu đi lại đường không của vùng Tây Bắc. Tuy nhiên, không lâu sau, sân bay một lần nữa bị đóng cửa do lượng khách đi lại khi đó còn rất ít. Đến năm 1994, sân bay tái hoạt động trở lại thêm 10 năm nữa, từ năm 1994 đến 2004. Ngày 17 tháng 5 năm 2004, sân bay một lần được “đóng cửa” để sửa chữa, nâng cấp, mở rộng đường băng với tổng vốn dự kiến khoảng 550 tỷ đồng (giai đoạn 1). Nhưng cho đến hết năm 2009, sân bay Nà Sản vẫn chưa có vốn đầu tư để thực hiện việc nâng cấp. Nguyên do trong việc chậm trễ nâng cấp sân bay là do kém hiệu quả kinh tế khi chỉ cách Hà Nội 300 km về phía Tây Bắc và cách sân bay Điện Biên Phủ 180 km về phía Nam.
Hồ Tiền Phong thuộc Xã Mường Bon, nằm sát trục đường quốc lộ 6 cách Tp Sơn La 23 km, cách Thị trấn Hát Lót 7 km và cách sân bay Nà Sản 2 km
Đến Hồ Tiền Phong, một trong những điều đặc biệt hấp dẫn bạn là được du ngoạn trên mặt Hồ bằng thuyền chèo tay, thuyền đạp chân hay thuyền máy. bạn có thể đem theo cần câu thả mồi để câu cá dưới hồ như cá chép, cá trắm cỏ, trắm đen, các trôi, cá mè. Tới chân đập, bạn có thể đi bằng thuyền lên đỉnh đập để chiêm ngưỡng công trình chắn ngang hai ngọn núi, tạo nên hồ nước mênh mông, và ta bỗng thấy khâm phục những con người đã làm nên công trình này.
Đừng quên ghé thăm các bản làng và thưởng thức các nét văn hóa riêng của đồng bào dân tộc Thái sinh sống từ lâu đời bên cạnh hồ như : Bản Nà Si, Bản Mé, Bản Un …
Mộc Châu là cao nguyên rộng lớn và xinh đẹp nhất vùng núi phía Bắc thuộc tỉnh Sơn La. Nằm trên cung đường Tây bắc nổi tiếng với những cảnh quan kỳ vĩ, những ngôi làng xinh xắn ven đường với những mùa hoa cải, hoa đào, hoa mận ngút trời.
Xem thêm bài viết : Kinh nghiệm đi phượt Mộc Châu (Cập nhật 10/2024)
Thung Cuông (Thông Cuông) là một bản người Mông nằm giữa 2 xã Đông Sang của Mộc Châu và Xuân Nha của Vân Hô (Một huyện mới thành lập được tách ra từ Mộc Châu). Đường dẫn vào Thung Cuông với 2 bên là những thung lũng cải trắng mênh mông được trồng dày đặc. Đây cũng là một trong những điểm chụp ảnh cưới yêu thích của các bạn trẻ.
Pa Phách dưới là bản của người Thái. Pa Phách trên gồm có 3 bản : Pa Phách 1,2 và 3 của người Mông . Trước kia bản Pa Phách 1 thuộc xã Vân Hồ, mới nhập vào xã Đông Sang từ năm 2002. Do địa hình nằm giữa 2 dãy núi nên Pa Phách được thắt mở cao dần tạo nên 3 bản Pa Phách của người Mông xanh .Khí hậu nói chung mát mẻ trong lành ,có nhiều rừng bao quanh và đặc biệt khi chiều buông là sương mù vây kín dày đặc như lạc trong biển sương vậy.
Nằm trên cao nguyên Mộc Châu, bản Áng không chỉ có khí hậu trong lành, mát mẻ; cảnh sắc thơ mộng, hữu tình mà còn lưu giữ kho tàng văn hóa đặc sắc của dân tộc Thái.
Thác Dải Yếm các tên gọi khác là “thác Nàng”, “thác Bản Vặt” nằm tại xã Mường Sang, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La. Sở dĩ thác mang tên là Dải Yếm vì theo truyền thuyết, thác là dải yếm của người con gái cứu chàng trai thoát khỏi dòng nước lũ.
Hang Dơi nằm về phía Đông-Bắc của thị trấn Mộc Châu với diện tích là 6.915 m2. Từ Hà Nội lên Sơn La theo quốc lộ 6 di tích nằm ngay trung tâm thị trấn Mộc Châu ở dãy núi phía bên tay phải cách đường quốc lộ 6 là 165 m. Từ quốc lộ 6 lên tới hang ta phải leo 240 bậc là tới cửa hang. Đường tới hang được tạo dáng uốn khúc, uyển chuyển làm dịu đi nỗi mệt khi du khách phải đi lên cao.
Ngũ Động nằm sâu trong những hẻm núi của bản Ôn (Mộc Châu) khá tách biệt với bên ngoài. Do đường vào Ngũ Động còn nhiều khó khăn nên vẫn giữ được nét đẹp hoang sơ hiếm có.
Cao nguyên Mộc Châu vốn nổi tiếng với những đồi chè xanh mướt, trải dài tít tắp suốt qua những quả đồi. Chè ở đây được trồng khắp nơi, xen lẫn với những ngôi nhà bé xinh. Đâu đó với những hàng hoa tầm xuân, hoa giấy đang nở rộ trong mờ ảo sương khiến khung cảnh trở nên mơ màng.
Có thể nói Nà Ka là một trong những thung lũng mận đẹp nhất của Mộc Châu, bởi vậy mà có người đã từng ví nơi đây vào mùa xuân đẹp như một xứ sở thần tiên. Mùa xuân, đứng trên đỉnh đèo, du khách thỏa thích phóng tầm mắt xuống thung lũng là một màu trắng kiêu sa, xinh đẹp của những bông hoa mận trải dài hết thung lũng rộng lớn, trên vách đá cheo leo, hay trên những quả đồi nhỏ ở đâu ta cũng thấy màu trắng tinh khôi của hoa mận….
Là một cửa khẩu phụ, cửa khẩu Lóng Sập thuộc địa bàn xã Lóng Sập nối với nước bạn Lào thông qua cửa khẩu Pa Hang thuộc tỉnh Hủa Phăn của Lào. Đây cũng là nơi có mốc biên giới số 255 (Mốc Việt Lào). Nếu muốn sang tham quan chợ Lào, các bạn cũng cần phải qua trạm khai báo và làm thủ tục nhé.
Nhà máy Thủy điện Sơn La là nhà máy thủy điện nằm tại tại xã Ít Ong, huyện Mường La, tỉnh Sơn La, Việt Nam. Nhà máy được khởi công xây dựng ngày 2 tháng 12 năm 2005,. Sau 7 năm xây dựng, Thủy điện Sơn La được khánh thành vào ngày 23 tháng 12 năm 2012, sớm hơn kế hoạch 3 năm, trở thành nhà máy thủy điện lớn nhất Việt Nam và cả khu vực Đông Nam Á.
Thông số kỹ thuật Diện tích hồ chứa: 224km2. Dung tích toàn bộ hồ chứa: 9,26 tỉ mét khối nước. Công suất lắp máy: 2.400 MW, gồm 6 tổ máy. Điện lượng bình quân hằng năm: 10,2 tỉ KW
Nằm ở độ cao trung bình trên 1.800m so với mặt nước biển, khí hậu quanh năm mát mẻ, xã Ngọc Chiến (Mường La, Sơn La) là điểm được khá nhiều bạn trẻ ưa xê dịch tìm đến trong những năm gần đây. Đây là nơi sống và định cư lâu đời của 3 dân tộc Thái, Mông và La Ha với văn hóa phong phú đa dạng, giàu lòng mến khách.
Con gái Ngọc Chiến làm lụng vất vả quanh năm mà vẫn có nước da mịn màng, đó là nhờ dòng suối khoáng nóng đã có từ ngàn đời nay chảy qua bản Lướt để “bóc” cho làn da trắng hồng của người con gái thêm mịn màng. Với người dân bản làng ở Ngọc Chiến, người ta vẫn tin truyền thuyết về suối nước nóng ở bản Lướt rằng, đó là nơi con rồng núi bay lên mây sau khi đánh thắng bộ lạc chuyên đi cướp bóc của cải của người hiền. Các cụ già ở Ngọc Chiến kể lại, suối nước nóng là do rồng phun lửa để đuổi quân cướp bản, sau đó một người trong bản dùng nước suối làm nước sinh hoạt đã khỏe mạnh và đẹp dần theo ngày tháng. Từ đó, cả bản đã cùng sinh hoạt, tắm vào buổi sớm đi nương để như tiếp sinh lực cho ngày bắt đầu lao động và chiều về lại tắm để hồi sức sau những giờ lao động vất vả.
Cánh đồng Mường Chiến rộng đến 5-6km2, được bao bọc bốn phía bởi những dãy núi cao ngất, chủ yếu cấy nếp Tan đặc sản. Đây là loại nếp chỉ trồng ở Ngọc Chiến mới thơm ngon, trong dẻo. Giá nếp đắt gấp 3-4 lần nếp thường. Việc thu hái nếp Tan cũng khác với loại lúa khác, không gặt được mà chỉ hái từng bông.
Đến Ngọc Chiến để ngắm nhìn vẻ đẹp của con gái Thái, thả mình trong làn nước nóng của suối khoáng Bản Lướt rồi thưởng thức hạt cơm nếp dẻo ngon từ bông nếp Tan sẽ để lại cho bạn những ấn tượng, mà chắc chắn rồi từ đó bạn sẽ trở lại Ngọc Chiến lần hai.
Ở Ngọc Chiến chưa có nhiều dịch vụ kinh doanh nhà nghỉ nhưng các bạn có thể dừng hỏi tại căn nhà sàn to ngay trung tâm xã (bên cạnh bể tắm công cộng người dân vẫn tắm) là nhà của bác chủ tịch xã trước đây, ở đây có thể tìm được chỗ nghỉ ngơi, ăn uống và dịch vụ tắm nước nóng.
Xem thêm bài viết: Kinh nghiệm du lịch Ngọc Chiến Mường La (Cập nhật 10/2024)
Đây là một điểm di tích khảo cổ thuộc thị trấn Ít Ong. Để lên được hang này, từ đồn công an Thủy điện Sơn La các bạn đi ngược thẳng lên núi sẽ đến được điểm cách cửa hang phía Tây khoảng 250m. Vào trong hang, các bạn sẽ ngỡ ngàng trước cảnh sắc diệu kỳ của tạo hóa, thế giới của vô số nhũ đá với những hình thù kỳ ảo. Trong số này có một nhũ đá mang hình đôi trai, gái quấn quýt bên nhau, được gắn với truyền thuyết về mối tình thủy chung của một chàng trai nghèo với cô con gái nhà quan giàu có. Lòng hang có hình vòng cung, chỗ rộng hơn 50m, có chỗ vòm hang cao tới 20m, các góc tối trần hang là nơi trú ngụ của những đàn dơi. Thạch nhũ trần hang cũng đủ kiểu hình dáng, kích thước, những khối thạch nhũ buông rủ, óng ánh tựa những đám mây ngũ sắc, có khối tựa những bức phù điêu tùy theo tưởng tượng của người thưởng ngoạn.
Cửa hang chính quay về hướng Đông, rộng khoảng 15m, cao hơn 7m, ở giữa có hòn đá to được một cây cổ thụ ôm lấy tựa cột chống cửa hang, chia hang thành 2 ngách. Đứng ở cửa hang nhìn xuống sẽ quan sát được cả công trình thủy điện Sơn La, thị trấn Ít Ong, rừng cao su Phiêng Tìn, cầu cứng Mường La và toàn bộ vùng hạ lưu sông Đà… khung cảnh kỳ vĩ và nên thơ.
Cách trung tâm huyện chưa đầy 20 km, Cát Lình là một bản của đồng bào Mông nằm bên sườn đỉnh Pu Tha Kềnh (Núi Múa Khèn) cao hơn 2.500m so với mực nước biển. Mùa lúa chín này, nơi đây nhìn từ xa tựa như bức tranh đa sắc màu, tầng tầng lớp lớp trải dài từ sườn núi này nối sang núi khác, kéo xuống tận thung sâu. Cát Lình - là địa danh phiên âm ra tiếng phổ thông, chứ người dân nơi đây vẫn gọi vùng đất này là Co Linh (nghĩa là khu rừng nhiều khỉ), cũng bởi vùng đất này còn khá hoang sơ, nơi trú ngụ của nhiều loài muông thú, trong đó có loài khỉ. Rừng nguyên sinh còn nhiều, suối nước dồi dào quanh năm, đồng bào dân tộc Mông các vùng Chiềng Ân, Ngọc Chiến đã về đây khai khẩn, lập bản, bám trụ từ những năm 70 của thế kỷ trước. Lên Cát Lình chỉ có một con đường liên bản gập ghềnh sỏi đá, nối trung tâm xã Chiềng Muôn với các bản Hua Đán - Nậm Kìm - Cát Lình.
Ở xã Gia Phù, huyện Phù Yên không ai là không biết đến khu rừng mang tên Đại tướng Võ Nguyên Giáp, mà người trong vùng vẫn gọi bằng cái tên thân mật: “Rừng ông Giáp”. Là khu rừng rậm rạp, ít người lui tới nên muốn vào thăm, ai nấy đều phải gõ cửa ngôi nhà gỗ nhỏ nằm cạnh suối Bùa để được nghe chỉ dẫn.
Men theo con đường mòn nhỏ dốc đá trơn trượt, bạn sẽ được chủ nhân của ngôi nhà gỗ, đồng thời là người giữ rừng kể lại câu chuyện năm xưa. Trong lần hành quân từ Nghĩa Lộ (Yên Bái) lên Điện Biên tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ 1954, Đại tướng Võ Nguyên Giáp và đoàn quân đã chọn nơi đây làm nơi đóng quân, nghỉ ngơi.
Vốn có tên gọi là rừng bản Nhọt nhưng với lòng kính trọng, biết ơn và cảm phục công lao của Đại tướng, người dân địa phương đã gọi khu rừng này là “Rừng Đại tướng Võ Nguyên Giáp” như một cách để con cháu luôn nhớ về nơi Đại tướng đã dừng chân. Vẫn là những con đường rêu đá nhỏ hẹp, lúc lên, lúc xuống, nhưng qua câu chuyện kể đồng hành, bước chân lữ khách như chững lại, để rồi hình dung về quãng đường thồ gạo, kéo pháo lên Điện Biên của đoàn quân năm xưa.
“Rừng ông Giáp” hiện có diện tích khoảng 200 ha, được hình thành từ hai dãy núi bao bọc, cây cối xanh tốt, quanh năm mây phủ. Không giống như nhiều khu rừng khác chỉ còn gỗ tạp, dây leo, khu rừng vẫn còn nguyên vẹn với những cây chò chỉ đại thụ to vài ba người ôm không xuể. Một góc khác là cây lát, dổi, sâng, sấu cổ thụ lâu năm, là những cây pơ mu cao hàng chót vót, thẳng đứng lẫn trong làn sương mờ ảo.
Trong không gian tĩnh lặng của rừng già, văng vẳng bên tai là tiếng suối Dưn chảy róc rách đêm ngày như lời nguyện từ năm xưa vọng lại. Đây là nơi trú quân đầu tiên trong rừng bản Nhọt. Dọc theo các con suối khác trong rừng cũng được Tướng Giáp chọn đóng quân: đài quan sát trên đồi suối Hiền, trạm quân y dã chiến bên dòng suối Bùa và đặc biệt là trên ngọn suối Tắc Tè bên sườn đồi Tang Tú - nơi đặt sở chỉ huy mà Đại tướng dừng chân, đến nay vẫn còn hiện hữu.
Cách trung tâm xã Mường Thải hơn 7 km, bản Chiếu có 139 hộ đồng bào Mường sinh sống. Những năm gần đây, bên cạnh trồng trọt, chăn nuôi, trong bản đang hình thành các dịch vụ tắm khoáng nóng, nuôi cá lồng và thuyền du lịch trên lòng hồ suối Chiếu.
Nằm trên địa bàn xã Quang Huy, tiếp giáp với các xã Huy Bắc, Suối Tọ và thị trấn Phù Yên, rừng thông Noong Cốp có diện tích hơn 1.300ha, với hàng vạn cây thông trên 30 năm tuổi, đây được coi là lá phổi xanh và là điểm du lịch sinh thái hấp dẫn của huyện Phù Yên. Đến với rừng thông Noong Cốp, các bạn có thể đi bộ khám phá, leo núi hoặc cắm trại giữa thiên nhiên.
Cầu Pá Uôn nằm trên địa phận xã Chiềng Ơn, sát ngay thị trấn Phiêng Lanh. Được mệnh danh là Đông Dương đệ nhất cầu với độ cao tự nhiên từ mặt đất lên đến mặt cầu xe chạy là 105m, đặc biệt nhịp giữa cầu cao đến 120m. Đứng giữa cầu, con người chỉ là một chấm nhỏ bé giữa bức tranh sơn thủy với núi non xanh biếc, sông sâu thác dữ, mây trắng vờn trên đỉnh. Nhìn từ xa cầu Pá Uôn như một con rồng bê tông cốt thép lừng lững giữa hai triền núi cao chót vót.
Ở Quỳnh Nhai (Sơn La) có hai ngôi đền thiêng từ thế kỷ 17 của bà con dân tộc thiểu số là đền Linh Sơn Thủy Từ và Nàng Han đã được phục dựng gần nguyên gốc sau khi đền chính ngập dưới lòng hồ thủy điện Sơn La.
Truyền thuyết kể lại rằng: Nàng là con gái duy nhất của chúa đất người Khơ Mú ở Chiềng Phung (Quỳnh Nhai ngày nay). Nàng có tài kiếm, cung vô địch. Nàng xin cha được giả trai và luyện tập cùng quân lính. Cha nàng thuận ý và đặt tên con trai cho nàng là Khum Chương.
Khi giặc phương Bắc tràn sang xâm lược, chúa đất chọn chủ tướng cầm quân ra trận. Trong cuộc thỉ đấu quyết liệt Khum Chương đã thắng và được phong làm Chủ tướng và một người đứng sau làm Phó tướng là Khum Lụm. Khum Chương cùng Phó tướng dẫn quân ngược sông Đà, sông Nậm Na (thuộc Lai Châu ngày nay) đánh đuổi giặc phương Bắc qua Chiềng Sa (xã Mường So, huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu) đến Si Xoong Pa Na (Mường Là - Trung Quốc) rồi quay về.
Về nhà đúng 30 Tết, nàng làm lễ cúng áp Mố Chiêng - Tắm gội 30 Tết. Tắm gội xong thì lại nghe tin giặc giữ phương Bắc sang cướp phá ở Mường Lò (Nghĩa Lộ, tỉnh Yên Bái). Nàng lại mặc giáp bào, trở thành Khum Chương cùng Phó tướng Khum Lụm cầm quân xuôi sông Đà vào Bắc Yên, vượt núi vào Phù Yên tiến vào Mường Lò đánh đuổi quân giặc chạy tan tác.
Khum Chương cùng quân lính tiến quân khải hoàn trở về, đến Mường Pùa (xã Tường Phù ngày nay) cho quân sĩ nghỉ lại. Một buổi chiều Khum Chương và phó tướng Khum Lụm cưỡi ngựa đi chơi, qua khe suối có nước trong vắt, Khum Chương cúi xuống đưa tay vục nước uống; có ngờ Khum Lụm nhìn thấy vú nàng. Biết nàng là con gái giả trai, Khum Lụm uất ức phải làm phó cho một nữ nhi nên hô lính đuổi giết Khum Chương.
Khum Chương quay lại rút kiếm chém chết Khum Lụm và thốc ngựa chạy vào rừng sâu. Thấy quân lính hỗn loạn, Khum Chương dừng ngựa ngửa mặt kêu trời. Trời thương nên thả nôi mây xuống đón hồn nàng lên trời và cho dội một trận mưa phôn chăng (bây giờ gọi là mưa axít) bỗng xác Khum Chương và quân lính đã biến thành đá.
Sau khi Khum Chương chết, Tạo Mường và dân bản đã trả lại tên con gái cho nàng là Nàng Han. Nhớ công ơn nàng đánh đuổi giặc cứu Mường nên người dân cùng Tạo Mường đã làm cho Nàng một cỗ quan tài quý, đặt hình nhân, xếp mộ đá giả cho Nàng và làm miếu thờ cúng hàng năm vào ngày rằm tháng 3 (âm lịch).
Điểm nổi bật nhất ở khu du lịch Mường Chiên, đó là suối nước nóng bản Bon, đây là điểm du lịch nghỉ dưỡng, tắm khoáng chữa bệnh và vui chơi giải trí cuối tuần. Du khách vừa có thể tổ chức các hoạt động vui chơi, ăn uống kết hợp với tắm khoáng nóng chữa bệnh, nước suối ở đây có đầy đủ những khoáng chất với độ tinh khiết nguyên sơ có lợi cho sức khỏe của con người, chữa các bệnh như thấp khớp, đau dạ dày, bệnh đường ruột… đem lại sự thư thái và dễ chịu. Đến Mường Chiên, du khách tùy theo sở thích, có thể ngâm mình thư giãn trong làn nước khoáng trong vắt hay đi thuyền dọc sông Đà thưởng ngoạn khung cảnh hữu tình hai bên bờ, và khám phá các hang động ở bản Bon, bản Quyền…
Từ trung tâm huyện Sốp Cộp, vượt quãng đường gần 60 km ngoằn ngoèo, uốn lượn vắt ngang những sườn núi cao vút, đến đầu bản Liềng là thấy suối nước nóng lộ thiên giữa cánh đồng lúa vàng. Nhìn từ xa, cả khu vực này hiện ra như một bức tranh thủy mặc.
Tháp Mường Bám tên gọi khác là Thạt Bản Lào (Thạt tiếng Lào có nghĩa là Tháp). Di tích thuộc xã Mường Bám (huyện Thuận Châu), cách trung tâm thị trấn Thuận Châu hơn 70 km về phía Tây- Nam.
Dựa theo thuyết phong thuỷ, đồng bảo dân tộc Lào ở Mường Bám xưa đã chọn đất kỹ lưỡng để xây dựng tháp. Tháp được xây trên một quả đồi thiên tạo có bề mặt rộng khoảng 1ha. cách bờ suối Nậm Húa (phần đầu nguồn của dòng sông Mã) khoảng 300m, gồm một quần thể 5 tháp, một tháp to ở giữa và 4 tháp con ở 4 cạnh tháp to, theo 4 hướng Đông, Tây, Nam, Bắc. Mặt Tháp quay về hướng Đông và nhìn ra ngã ba suối Nậm húa có núi án ngữ làm bình phong. Núi chắn hai bên theo hướng Bắc, Nam tựa thế tay ngai. Trước mặt tháp là ngã ba suối, uốn khúc chạy lượn “chi huyền thuỷ”. Từ trái sang phải, phía sau Tháp có dẫy núi tựa người đang ngồi “thiền”. Quần thể Tháp có vị thế rất tĩnh lặng, uy nghi.
Về cấu trúc vật liệu: Tất cả 5 tháp đều được xây bằng một loại vật liệu, chủ yếu là gạch vồ màu đỏ, kích thước lớn dài 35cm, rộng 15cm, dày 7cm được gắn kết với nhau bằng vôi, cát, và mật. Các hoạ tiết hoa văn được làm bằng vữa đắp nổi, nhiều chỗ gắn thêm vào những hình đất nung trang trí.
Hướng dẫn đi tới tháp : Từ trung tâm thị trấn Thuận Châu, theo quốc lộ 6 hướng đi Điện Biên khoảng 600m rẽ tay trái vào đường tỉnh lộ 108, đi 45km đến thị tứ Co Mạ.Từ thị tứ Co Mạ đi Mường Bám khoảng 28km là tới di tích.
Thác Tạt Nàng nằm ở bản Phụ Mẫu I, xã Chiềng Yên, một dòng thác biểu tượng cho tình yêu thủy chung của người con gái Thái xinh đẹp nổi tiếng một vùng. Để đến thác Tạt Nàng có thể đi bằng đường thủy hoặc đường bộ, tùy thuộc vào điểm xuất phát. Theo đó, khởi hành từ Hà Nội tới ngã ba Đồng Bảng, huyện Mai Châu (Hòa Bình) rẽ tay phải đi theo quốc lộ 6 cũ khoảng 20 km là tới thác. Còn đi bằng đường thủy đến bến Suối Rút, huyện Mai Châu (Hòa Bình) rẽ tay phải, đi khoảng 18 km là tới thác. Nếu đi từ Sơn La theo quốc lộ 6 đến ngã ba rừng già, theo đường liên bản Nà Bai, bản Niên khoảng 30 phút là đến.
Hua Tạt là một bản nhỏ thuộc H’Mông thuộc xã Vân Hồ, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La, nằm chạy dọc theo quốc lộ 6, một bên là đại lộ, một bên là vách núi cao, bản nằm lọt thỏm ở giữa, yên bình và lặng lẽ. Tại đây các bạn có thể thuê nhà sàn nghỉ homestay, thưởng thức các món ăn đặc sản của người địa phương cũng như du lịch tới các điểm hấp dẫn lân cận.
Cách quốc lộ 6 khoảng 25 km, hang Nhả Nhung, thuộc bản Trạm Hốc, xã Chiềng On có vẻ đẹp nguyên sơ với nhiều hình thù nhũ đá tự nhiên, vì vậy thu hút được khá nhiều du khách đến khám phá trải nghiệm.
Hồ Chiềng Khoi thuộc Bản Pút, Xã Chiềng Khoi. Từ trung tâm thị trấn huyện Yên Châu về phía Nam 4 km, Hồ Chiềng Khoi có diện tích 40 ha hiện ra như một con nhện khổng lồ.
Theo cách giải thích của người dân bản địa, Chiềng Khoi có nghĩa là vùng đất rộng lớn, bằng phẳng và ở trên cao. Tương truyền rằng, xưa kia Chiềng Khoi là vùng đất thiếu nước, đất đai khô cằn, người dân nơi đây tuy chịu thương, chịu khó nhưng cuộc sống vẫn chật vật, khó khăn vì thiếu nước. Trên mảnh đất này có một chàng trai tên là Khoi, chàng có sức khoẻ phi thường. Thân chàng đen và bóng như thân gỗ lim, tay chàng to như mặt quạt. Thấy nhân dân cực khổ chàng bèn dời núi, khơi các dòng nước từ các hướng chảy về đây, hình thành nên hồ Chiềng Khoi.
Nhưng đó mới chỉ là Hồ Chiềng Khoi của những câu chuyện truyền kỳ. Còn một Hồ Chiềng Khoi nữa của một hệ sinh thái khá phong phú. Hồ Chiềng Khoi là hồ nhân tạo được khởi công xây dựng năm 1971 với một đập chắn cao 45 m, dài 110 m và hoàn thành đi vào sử dụng năm 1980. Hồ Chiềng Khoi vốn là đáy các thung lũng hẹp, có các dòng suối nhỏ từ trong lòng núi chảy vào Suối Sập. Lòng Hồ là một thung lũng hẹp, chạy ngoằn ngoèo quanh những quả đồi lớn dài tới 7 km. Nước Hồ Chiềng Khoi lúc nào cũng trong xanh, yên ả quanh năm bởi nguồn nước cung cấp cho hồ đều chảy ra từ trong lòng núi. Chính những con suối nhỏ và rừng núi nguyên sơ đã tạo cho mặt hồ và cảnh quan nơi đây có vẻ đẹp huyền ảo. Như bức tường thành thẫm xanh bồng bềnh mây trắng, những dãy núi điệp trùng trải dải từ phía Nam đến phía Tây Bắc và rừng già ôm lấy toàn bộ mặt hồ, hồ lồng trong bóng núi. Khi du khách đến đây vào mùa hoa ban nở sẽ thấy một mầu trắng thuần khuất trải dài theo sườn núi và mềm mại như một dải lụa, du khách sẽ không khỏi ngỡ ngàng trước cảnh sắc trời đất nơi đây.
Các đồi đất, dãy núi đá vôi bao bọc Hồ Chiềng Khoi còn có nhiều loại rau rừng rất ngon như rau sắng, lá xồm pon, măng tre, măng đắng, măng lay, nhiều loại nấm và rất nhiều loại chim trong đó có họa mi, khiếu, cò trắng, chào mào, vẹt, chim én. Rừng ở đây có nhiều loại động vật sinh sống như khỉ, sơn dương, hoẵng, lợn rừng, cầy hương, cầy bay. Hồ Chiềng Khoi có các loại cá tự nhiên như cá chép, cá mương, cá quả, cá trê, cá riếc và nhiều loài tôm, cua, ếch.
Đến Chiềng Khoi, du khách không chỉ được thưởng ngoạn vẻ đẹp của thắng cảnh Hồ Chiềng Khoi mà còn được thưởng thức những nét đẹp văn hóa truyền thống của dân tộc Thái Yên Châu với những lễ hội, ca vũ đặc sắc. Người Thái ở đây còn có các nghề thủ công truyền thống. Với bàn tay khéo léo họ đã tạo ra những sản phẩm thủ công mỹ nghệ độc đáo như: nhạc cụ dân tộc, đồ dùng mây tre đan và tiêu biểu nhất là vải “Khít”, là loại vải thổ cẩm nổi tiếng không những ở Yên Châu mà cả vùng Tây Bắc. Đặc biệt vùng đất này nổi tiếng với nghề thêu khăn piêu và làm khèn bè. Sau vài giờ thưởng ngoạn cảnh đẹp và không khí trong lành mát dịu trên hồ, du khách sẽ thăm những bản mường nơi đây để thưởng thức những món ăn dân tộc do chính bàn tay của những cô “Sơn nữ Châu Yên” chế biến. Du khách lại được dập dìu trong tiếng trống, đắm mình trong điệu xoè, đầm ấm bên chum rượu cần, cảm nhận thấy sự thân thiện, không khí chan hoà bởi lòng mến khách của dân tộc nơi đây. Hồ Chiềng Khoi là một điểm du lịch sinh thái - văn hoá ngày càng hấp dẫn du khách.
Hang có tên là Chi Đảy (tiếng Thái, dịch ra có nghĩa là “sẽ được”), từ bao đời nay, những người dân tộc Thái vẫn rỉ tai nhau những câu chuyện kỳ lạ về hang động này. Rất nhiều người không quản ngại xa xôi đến hang để cầu mong vạn sự như ý.
Dọc theo quốc lộ 6 rẽ vào đường đi qua xã Cò Nòi của Mai Sơn, vượt qua đèo Cà Nài (15km) sẽ đến bản Đán, xã Yên Sơn. Từ đây còn phải đi bộ qua đoạn đường núi khoảng 3km mới tới được chân núi Chi Đảy
Sơn La là vùng đất sinh sống lâu đời của 12 dân tộc anh em, mỗi dân tộc đều có những bản sắc văn hóa riêng, độc đáo và tương đồng có lẽ vậy mà các món ăn ở Sơn La mang những hương vị không trộn lẫn, có từ ngàn đời nay.
Xôi ngũ sắc của người Thái ở Sơn La là nét văn hóa ẩm thực độc đáo. Gạo nếp được chọn thường là gạo nếp tan Mường Chanh hoặc nếp thơm Mường Tấc, đem ra lựa chọn bỏ hạt gãy, nhỏ… sau đó ngâm vào nước lá cây “Khảu Cắm” tạo thành các màu xôi khác nhau: trắng, tím, đỏ, vàng, xanh, tượng trưng cho âm, dương, ngũ, hành, tình đoàn kết các dân tộc anh em. Món xôi ngũ sắc hấp dẫn du khách bởi hương vị đặc biệt vừa thơm, dẻo cùng với màu sắc hòa quyện hấp dẫn. Xôi ngũ sắc dùng trong dịp lễ, tết hay khi nhà có khách quý.
Gỏi cá được đánh giá là món ăn ngon, chủ đạo trong các món thường để đem ra thết đãi khách quý của đồng bào dân tộc Thái, thể hiện sự hiếu khách của gia chủ. Từ xưa người Thái đã có câu “Xép nhứa cin nhứa ma, xép pa cin pa cỏi”, nghĩa là “Thèm thịt thì ăn thịt chó, thèm cá thì ăn cá gỏi”. Ngày nay, món cá gỏi không chỉ có đồng bào dân tộc Thái chế biến và thưởng thức mà đã có mặt trong thực đơn của các nhà hàng, tạo nên thương hiệu riêng của món ăn này.
Làm khô là cách dự trữ thức ăn rất phổ biến của đồng bào Thái. Thịt trâu khô là một trong những cách dự trữ ấy nhưng hương vị đặc biệt lại khiến nó trở nên hấp dẫn có tiếng. Không phải lúc nào đồng bào Thái ở Sơn La cũng có thể chế biến thịt trâu khô, mà trong dịp tết hay lễ cúng lớn, gia đình có mổ trâu thì người ta mới để lại một ít để làm món này.
Để làm thịt trâu khô, người Thái thường lựa thịt ở bắp, ít gân, thớ thịt đều, đẹp. Thịt trâu lọc bỏ gân, thái miếng dài khoảng 15cm, rộng 7 - 8cm, dày khoảng 2 - 3 cm, rồi đem ướp gia vị. Gia vị để ướp khá phức tạp, gồm nhiều thứ: ngoài muối, đường, mỳ chính, còn có ớt, sả, tỏi, gừng, mắc khén (loại gia vị chỉ có ở vùng núi), tất cả được đem giã nhỏ, trộn đều rồi ướp với thịt trong khoảng 2 - 3 tiếng cho ngấm. Sau đó, dùng que xiên thịt rồi đem phơi nắng hoặc để trên gác bếp. Khi thịt đã khô thì đồ lại trong khoảng hơn một tiếng để thịt chín đều. Có thể ăn ngay hoặc treo trên gác bếp để dùng dần.
Khi ăn, thịt trâu khô có thể đem nướng trên than hồng hoặc đồ lại cho thịt mềm, dễ ăn. Món này hấp dẫn bởi hương vị đặc biệt, có vị cay của ớt, vị nồng của tỏi, vị ngọt của thịt và nhất là mùi ngai ngái của khói bếp, mùi thơm không trộn lẫn cùng vị tê tê nơi đầu lưỡi khi ăn của hạt mắc khén.
Cơm lam là một món ăn đặc trưng của vùng Tây Bắc đặc biệt là dân tộc Thái, Cơm lam được chế biến rất đơn giản từ gạo nếp, theo phong tục của người Thái ngày xưa thì Cơm lam chỉ được làm sau khi thu hoạch xong vụ lúa mới đặc biệt là người ta thích nấu bằng gạo nếp nương, gạo nếp được ngâm ủ qua đêm cho vào từng ống tre mà bà con gọi là may khâu (Lam Pa Ngà), thêm nước vừa đủ và nút lại bằng lá chuối hoặc lá dong rồi đưa lên bếp củi đốt cho đến khi vỏ ống nứa cháy sém lan tỏa mùi thơm từ gạo, ống nứa không còn nước là chín.
Sau đó chẻ tách từng phần cật chỉ còn lại lớp lụa mỏng bó chặt từng cây cơm trắng nõn bạn phải thật khéo khi chẻ ống cơm lam nếu không chẻ khéo không giữ được lớp lụa mỏng thì coi như cơm lam đã mất đi một nửa giá trị, Trên lớp vỏ lụa trắng mỏng ấy có thoáng chút mặn, chút hương của rừng và của khói làm cho miếng cơm dẻo thật sự thăng hoa, cơm lam thường được chấm muối hoặc vừng tùy theo từng sở thích của mỗi người, cũng có những vùng người dân ăn cơm lam với chẳm chéo món chấm đặc trưng của dân tộc Thái, Chẩm Chéo được chế biến từ muối, ớt tươi nướng, rau mùi…, đặc biệt không thể thiếu loại trái rừng có tên là mắc khén, tất cả được giã nhuyễn. Không có mắc khén không làm ra chẩm chéo, không có chẩm chéo không thành bữa cơm lam. Cơm lam Sơn La thường được bán vào mùa đông. Vì loại ống nứa để nướng cơm lam mùa này mới có.
Xôi sắn là là món ăn quen thuộc của người Thái vùng Tây Bắc. Sắn bà con đào từ nương về bóc vỏ, rửa sạch rồi nạo thành từng sợi nhỏ trộn lẫn với gạo nếp cho vào chõ đồ lên.
Để xôi dẻo, nắm tay không dính, lâu thiu, bà con không dùng các loại chõ sành, chõ kim loại vì có nhược điểm thường gây ra “ướt xôi” không ngấm nước. Cái chõ này được làm bằng những khúc gỗ có đường kính nhỏ, gỗ mềm đem về cắt khúc, cưa rỗng giữa, tạo dáng đẹp như một đài hoa, thon nhỏ từ dưới lên trên, đáy chõ có hai thanh tre nhỏ để đặt tấm đan thưa đỡ gạo khi cho gạo vào chõ xôi. Phần chõ lại được đặt trên một cái ninh đồng, thay cho nồi. Dùng loại chõ gỗ có ưu điểm gỗ hút hơi nước lên, xôi chín dẻo, khô. Khi xôi chín bà con đổ xôi ra mâm, dàn mỏng dùng quạt, quạt cho xôi nguội nhanh. Rồi cho xôi vào các “giỏ” đan bằng mây có nắp đậy, có quai treo lên cột nhà. Đến bữa đem ra dùng hoặc đem đi làm nương ăn rất tiện. Thức ăn chỉ cần là gói muối ớt, hoặc con cá nướng.
Người Thái gọi món cá nướng là món Pa pỉnh tộp. Đây là món ăn cổ truyền, để chế biến được món cá pỉnh tộp thì bạn phải có đầy đủ gia vị đặc trưng như: mắc khén, gừng, xả, ớt tươi, rau mùi, rau thơm, hành tươi, húng…Tiếp đến là chọn cá, cần chọn có chép, trắm hoặc trôi khoảng từ 2 - 4 lạng nhưng thường thì người dân địa phương chọn cá chép nuôi trong ao hoặc cá chép sông là ngon nhất, mổ dọc sống lưng để nguyên nội tạng, bỏ mật và nhồi vào bụng cá cùng các loại gia vị gập đôi lại, luồn đôi qua vòng miệng. Sau khi đã tẩm ướp gia vị ngấm đều ta cho cá vào híp (đoạn tre tươi vừa đủ để kẹp chặt cá, chẻ đôi hay chẻ ba) nướng trên than củi đã hồng, pa pỉnh tộp phải được nướng đều trên than hồng mới không bị ám khói mà vẫn giữ được hương vị tự nhiên của cá. Cá nướng đã vàng đều lan tỏa mùi thơm từ gia vị mùi cay cay của má khen mùi thơm của cá thưởng thức miếng thịt cá vàng rộm, thơm lừng với cơm xôi dẻo ta mới thấy hết cái vị ngọt béo của cá, vị cay của ớt của các loại gia vị, cơm xôi mà ăn với pa pỉnh tộp của người Thái cũng được ví như cơm tám nấu niêu đất ăn với cá kho của người miền xuôi vậy.
Đây là một món ăn rất lạ, nguyên liệu làm món ăn này là tiết bò hoặc tiết dê để đông, đuôi, dạ dày, cuống tim và không thể thiếu một thứ nước sền sệt từ bên trong ruột non của con bò, gọi nó là “pịa”.
Người ta chọn một đoạn ruột non ngon để lấy pịa, ninh xương và lục phủ ngũ tạng lên để lấy nước, sau đó họ đổ pịa vào, có nơi còn cho thêm chút mật bò vào pịa. Phần ruột non sau khi lấy phải buộc chặt hai đầu, sau đó cắt thành khúc, trộn kèm rau thơm, bột mắc khén (hạt tiêu rừng), tỏi, ớt, mùi tàu…tất cả các gia vị được băm nhỏ rồi đun sôi lên. Nồi pịa đặt trên bếp lửa đun đến khi nồi pịa sánh, sền sệt lại là được. Món nậm pịa ăn kèm với rau chuối và bạc hà. Ban đầu chưa quen, chưa dám ăn thì món nậm pịa quả thật là rất khó ăn.
Món nậm pịa được múc ra bát có màu nâu, nước sền sệt, ban đầu khi nếm thử ta sẽ thấy vị đắng và mùi hơi khó ngửi. Có nhiều người mới đầu khi trông thấy bát nậm pịa, ngửi thấy mùi đã không ăn được. Nhưng khi đã nếm đôi ba miếng, bỏ qua những cảm nhận ban đầu về mùi và vị, thì những miếng tiếp theo, ta sẽ cảm nhận được mùi thơm của mắc khén, một loại gia vị của núi rừng. Vừa ăn nậm pịa, vừa nhấm nháp chén rượu thơm, ta lại thấy miếng nậm pịa đắng nơi đầu lưỡi và ngọt nơi cuống lưỡi. Món nậm pịa tuy vậy nhưng lại rất an toàn cho những ai yếu bụng.
Trong tiếng Thái, “nậm” có nghĩa là canh, “pịa” là chất sền sệt ở trong ruột non của bò. Món có tên đơn giản là nậm pịa, tùy theo cách hiểu của mỗi người. Nậm pịa chỉ có ở vùng núi Tây Bắc từ Mộc Châu đến Sơn La, đây là món ăn truyền thống có từ rất lâu đời và được đồng bào dân tộc Thái rất yêu thích.
Cháo mắc nhung (hay còn gọi là cháo đắng Phù Yên), một món ăn được chế biến từ một thứ quả màu xanh cùng họ với cà chua nhưng chỉ bé bằng hạt đu đủ chín, có vị cay cay, đắng ngọt.
Sau mùa gặt, quả mắc nhung gieo vãi trên nương bắt đầu chín mọng, bà con hái đem về rửa sạch, thêm gừng xả, trộn với gạo tấm, tưới ít nước đủ chín, túm vào lá chuối buộc chặt vùi trong tro bếp nóng, hoặc đồ xôi, chỉ 30 phút sau sẽ có ngay một món ăn sền sệt, ngăm ngăm đắng, thơm cay là lạ đầy hấp dẫn và chấm với xôi rất hợp khẩu vị.
Da trâu rất khó lấy vì trâu bị lọc toàn bộ da, sau đó được chuyển ngay cho các mối làm trống. Ấy thế nhưng người Thái ở Sơn La đã biến da trâu trở thành đặc sản không thể thiếu trên mâm cơm những dịp đặc biệt.
Để làm mềm da trâu được hơ qua lửa rồi ngâm với nước lã. Sau khi đủ độ, với con dao thật sắc, họ dùng hết sức để thái mỏng miếng da dầy đó. Khi thái mỏng tang, miếng da trâu giờ có màu vàng của quả chanh Tây, bên trong là màu vàng nhạt, trong trong, cắn thử lại sần sật, giòn giòn, là lạ.
Cũng như nhiều món nộm khác của người Thái, nộm da trâu cần gia giảm thêm nhiều gia vị và rau thơm như lạc, mùi ta, mùi tàu, chút hạt mắc khén đặc trưng. Đặc biệt, cái làm nên thứ quyến rũ của nộm da trâu chính là vị chua của nước măng chua, chứ không phải của chanh hay giấm. Đó là vị chua thơm, thanh thanh. Nước măng chua muốn ngon phải ngâm bằng thứ măng củ tươi, nước suối và thêm những gia vị cần thiết. Măng cũng phải có thời gian để “ngấu” tiết ra thứ nước chua thanh mát mới đúng điệu để trộn món nộm này.
Đến Mường Tấc (Phù Yên) chắc không thể quên được hương nếp cốm với những hạt xôi căng ngậy, dẻo thơm được đồ trên bếp than củi. Bao đời nay, trên mảnh đất của vựa lúa lớn thứ tư vùng Tây Bắc này, nhờ núi khau rua che chở, cùng dòng suối Tấc tưới mát quanh năm, bà con đồng bào dân tộc Thái ở thung lũng Mường Tấc, Mường Va đã trồng được giống nếp thơm, dẻo, rồi chế biến ra món xôi nếp cốm độc đáo, làm cho thực khách phải lòng ngay từ lần đầu thưởng thức.
Rêu xanh từ lâu đã là món đặc sản của bà con người Thái ở những vùng có nhiều sông suối, như Quỳnh Nhai, Phù Yên, Sông Mã… nhưng ngon nhất, thơm nhất, ấn tượng nhất chỉ có thể là rêu xanh được lấy ở chính dòng sông Mã. Trong những ngày lễ tết, mừng cơm mới, thêm tuổi hay gia đình có khách quý… hầu như không thể thiếu món rêu xanh trong mâm cơm của bà con. Rêu xanh có thể chế biến thành nhiều món ăn độc đáo khác nhau, như: Rêu nộm, rêu hấp, rêu nấu với măng đắng bằng nước luộc gà, xương hầm, rêu xào tóp mỡ ăn với xôi… món nào cũng mang hương vị ngon ngọt, hấp dẫn riêng.
Nguồn gốc, cũng như ai nghĩ ra cách chế biến món này thì chưa thể khẳng định, chỉ biết nó đã có trên bàn tiệc của bà con vùng Mường Tấc (Phù Yên) nhiều năm rồi. Ban đầu chỉ chế biến đủ ăn trong gia đình, sau do nhu cầu thưởng thức, “đặc sản” này bỗng lên ngôi và theo quy luật “cung - cầu”, món “mực khô phố núi” đã hiện diện ở nhiều các quán, nhà hàng ẩm thực.
Gân bò mua về lọc sạch, luộc khoảng 15 phút, vớt ra rửa sạch, cắt thành từng khúc, lấy chày đập cho tơi ra, ướp các loại gia vị trộn đều, để ngấm khoảng 30 phút mang ra chiên qua dầu ăn là có ngay món “mực khô phố núi”.
Những ngày mùa đông giá lạnh, đến Thuận Châu được mời món khoai sọ hầm xương nóng hổi, cảm nhận vị ngọt, bùi, thơm ngậy lạ thường. Khoai sọ trồng ở Nậm Lầu đặc biệt thơm, ngon khiến người từ xa đến chỉ ăn một lần cũng nhớ mãi.
Nếp mới sau khi được đồ chín thì đượm nồng ngọt ngào vì ngấm cái nắng, cái gió vùng cao. Xôi nếp được đổ vào chiếc cối to làm bằng nửa thân cây gỗ. Công việc giã bánh dầy là khá nặng nhọc, phải do những người đàn ông khoẻ mạnh đảm nhiệm. Theo nhịp chày hạ xuống, xôi nếp trong cối quện quánh, tan vào nhau.
Tiếp đó là công việc của những người phụ nữ. Từng vắt bánh nóng hổi tròn trịa dần dưới bàn tay các mẹ các chị. Năm nào thời tiết khắc nghiệt, mùa màng kém, bánh dầy hơi đen và không dẻo. Năm nào mưa thuận gió hòa, bánh ngon và giã quánh, đỡ vất vả hơn. 6 cặp bánh đầu tiên được gói nhanh, gói đẹp để dâng lên trời đất và vị thần mùa màng của dân bản. 6 cặp bánh gồm 12 chiếc tượng trưng cho 12 tháng trong năm. Những chiếc bánh còn lại xếp vào một hộp gỗ pơ mu đậy kín lại để ăn.
Khi ăn, bà con nướng bánh trên than củi. Bánh dẻo, thơm mùi nếp quện với mùi thơm gỗ, vị ngọt của nếp nương thật quyến rũ.
Từ lâu giống vịt Chiềng Mai, xã Chiềng Mai (Mai Sơn) nổi tiếng thơm ngon, được người tiêu dùng ưa chuộng. Loài vịt này có trọng lượng không lớn, trung bình chỉ từ 1,5-1,7 kg, xương nhỏ, da có màu vàng đặc trưng, thịt thơm, vị ngọt, thịt vịt mềm nhưng không bở, béo nhưng không ngán.
Cao nguyên Mộc Châu, nơi cửa ngõ Tây Bắc với thảo nguyên xanh rộng hàng chục nghìn héc ta tuyệt đẹp, được trời phú cho kiểu khí hậu cận ôn đới để trở thành nơi có đàn bò lấy sữa lớn nhất cả nước. Hiện nay, ở Mộc Châu có khoảng 10.000 con bò sữa. Ở đây, bê cái luôn được giữ lại nuôi lớn để cho sữa, còn bê đực được chế biến thành đặc sản bê chao nức tiếng.
Nguyên liệu để làm bê chao ngon nhất là bê sữa khoảng một tuần tuổi, chưa từng ăn cỏ, nên miếng thịt bê có vị thơm và cái mềm ngọt mà bê già tuổi hơn không thể nào có được. Trong số những món bê thường thấy như xào lăn, hấp sả, tái chanh… thì bê chao có lẽ là món ăn được chế biến đơn giản nhất, nhưng hương vị lại thuộc hàng đặc sản. Có lẽ bởi bê non đã sẵn cái ngon, cái ngọt, cái thơm, nên càng bớt cầu kỳ lại càng tôn hương vị đó lên trọn vẹn.
Bê phải chao trên lửa to để thịt không ngấm mỡ. Lửa to thì dầu phải ngập miếng thịt để tránh “sống trong, chín ngoài. Mùi thơm lựng của thịt, mùi cay nồng của gừng, sả tỏa lan “điếc mũi”. Độ chín của gừng, sả ướp cùng thịt bê cũng là một yếu tố để đánh giá tay nghề đầu bếp. Bê chín, gừng, sả cũng vừa vàng ươm, thơm nức mà không khét, cháy.
Bê chao phải ăn nóng. Trút ra đĩa, mỡ vẫn còn riu riu sôi trên những miếng thịt. Chấm thịt ấy vào bát tương sánh vàng, điểm thêm chút gừng bằm nhỏ. Thịt vàng hườm, mềm và ngọt khó tả. Phần bì phồng lên lấm tấm trắng, khẽ cắn vào thì thấy giòn, nhưng nhai kỹ vẫn có một chút dai vương vấn. Thi thoảng lại có thêm những lát gừng mỏng, vàng ruộm, không cay xè mà thơm đến ứa nước miếng.
Ốc đá ở Suối Bàng thường chỉ xuất hiện từ tháng 4 đến cuối tháng 8, tức là vào mùa mưa, khi thời tiết ẩm ướt. Những tháng còn lại chúng vùi mình trong những lớp lá dày hoặc nằm im dưới đất.
Về đến nhà, những con ốc được rửa sạch và đưa lên bếp luộc. Con ốc khều ra quệt qua tí nước chấm bỏ vào miệng thấy cay cay đầu lưỡi, ốc chạm vào răng lại thấy dòn dòn, vị ngọt mát lan dần xuống cuống họng. Cái ngon ngọt, mát dòn của ốc đá là thế, không tanh nhưng có vị hăng, thơm của lá rừng. Ăn ốc đá nên nhai chậm và kỹ mới thấm được vị mát lành, vị thơm độc đáo. Và cũng chỉ ăn theo kiểu thưởng thức, không nên vì ngon, lạ mà háo hức “ăn lấy no” như nhiều món khác.
Chè Shan tuyết Tà Xùa có búp màu trắng, cánh vàng, lá to được bà con lại chăm bón tự nhiên, không sử dụng hóa chất, việc thu hái, sao chế tuân thủ đúng theo kinh nghiệm cha ông để lại nên chè khi uống có vị thơm, ngọt thanh, mát dịu. Màu nước chè từ khi pha tới vài nước sau vẫn giữ được nguyên màu xanh lơ đỏ. Khi uống chè, cảm giác đầu tiên là vị đắng chát, sau đó dần chuyển sang ngọt, hương vị chè thơm đặc biệt khác lạ so với các dòng chè khác.
Mật ong là món quà quý giá mà thiên nhiên đã ban tặng cho con người, không những là thức uống bổ dưỡng mà còn có nhiều công dụng trong lĩnh vực y học và chăm sóc sắc đẹp. Đặc biệt nhận được sự ưu đãi của thiên nhiên dành cho Sơn La, với khí hậu ôn hòa, hoa trái quanh năm, diện tích hàng ngàn hecta cây ăn quả, cây công nghiệp cùng những cánh rừng bạt ngàn các loại hoa cỏ tự nhiên cho mật và phấn hoa có chất lượng tốt giúp cho Mật Ong Sơn La thơm ngon đặc biệt.
Mận hậu được biết đến là thứ quả đặc trưng núi rừng phía Bắc, được trồng nhiều ở các tỉnh Sơn La, Lào Cai, Lạng Sơn. Ở mỗi nơi mận lại có hương vị khác nhau, và có lẽ mảnh đất Sơn La được thiên nhiên ưu ái nhiều điều kiện thuận lợi đặc biệt thích hợp cho sự phát triển của cây mận nên mận hậu Sơn La khá ngon và nổi tiếng.
Chắc hẳn ai đã một lần đến Sơn La vào dịp đầu xuân sẽ rất ấn tượng, thích thú với sắc hồng của hoa đào ngập tràn khắp núi rừng nhưng vườn đào không chỉ đẹp khi ra hoa mà nó còn rất đẹp khi vào mùa thu hoạch. Những trái đào căng mọng, rám nắng, ửng hồng như đôi má thiếu nữ dưới ánh nắng le lói lọt qua những kẽ lá chiếu xuống như mời gọi thưởng thức khiến du khách mê mẩn. Đào là giống cây ưa lạnh, hợp với thổ nhưỡng ở Sơn La, đặc biệt là Mộc Châu vì thế từ lâu đào đã được biết tới là sản vật đặc trưng của mảnh đất này và biến nơi đây thành vựa đào của vùng Tây Bắc. Tầm tháng 4, tháng 5 hàng năm là mùa đào chín, lúc này những con đường lên Sơn La đâu đâu cũng hồng rực sắc màu của đào.
Nếu như Mộc Châu nổi tiếng với mận, đào, Yên Châu có niềm tự hào là xoài tròn thì na dai là sản vật đã trở thành thương hiệu của vùng đất Mai Sơn, là món quà quen thuộc du khách thập phương dừng chân mua về khi đi qua Mai Sơn mỗi độ vào thu. Na dai Mai Sơn có vỏ mềm, màu xanh, thịt màu trắng lại ít hạt, vị ngọt sắc, mùi thơm đặc biệt, ăn rất ngon miệng.
Cây táo mèo mọc tự nhiên, xen lẫn cây rừng trên những dãy núi cao từ 1500-2000m (so với mực nước biển) ở các huyện vùng cao của tỉnh Sơn La như: huyện Bắc Yên, huyện Mường La, huyện Thuận Châu. Táo mèo ra hoa vào cuối mùa xuân tầm tháng 3 tháng 4 và có quả vào mùa thu từ tháng 8 tới tháng 10. Vào vụ thu hoạch, bà con rủ nhau mang gùi lên rừng hái táo rồi bán cho các thương lái hoặc đem xuống chợ bán. Quả táo mèo ngon là quả không quá to, có màu vàng trong hoặc hồng phấn.
Lần đầu tiên nhìn thấy, có thể bạn sẽ lặc đầu chê, xoài gì mà vừa bé vừa xấu. Ấy thế mà ai đã ăn một lần là sẽ nhớ vị thơm vị ngọt của nó. Xoài Yên Châu ngọt, thơm khác hẳn loại xoài ở các vùng khác. Khi chín xoài có mầu vàng, tỏa mùi thơm hấp dẫn, đến mức rửa tay rồi, hương thơm của xoài vẫn vấn vít, thoang thoảng. Cái ngọt của xoài Yên Châu cũng hơi khác, ngọt đậm nhưng lại thanh mát cho nên không có cảm giác khé cổ bởi ngọt quá.
Đặc biệt ngon là những quả xoài bản địa được trồng tại Sặp Vạt, Chiềng Pằn, Viêng Lán,……của vùng đất Yên Châu. Trọng lượng từ 200 - 250g, nhựa quả trắng, trong, nhựa cây dạng sữa đục ngà, vỏ quả xanh nhạt, có các đốm lấm tấm, hạt dẹt nhiều xơ.
Rượu chuối từ lâu đã nổi tiếng là đặc sản của vùng đất Yên Châu (tỉnh Sơn La) và được bà con nơi đây trưng cất theo phương pháp thủ công truyền thống. Để có được rượu chuối ngon thì trước tiên phải lựa chon loại chuối phải thật chín, thái mỏng rồi đem phơi nắng cho thật khô. Rượu ngâm phải dùng loại rượu cốt nguyên chất, cứ 1 kg chuối hột thì ngâm khoảng 2-2,5 lít rượu nguyên chất. Đồ ngâm rượu phải là dùng lọ thủy tinh, rửa sạch. Bỏ chuối vào,chuôi chiếm 1/3 lọ, rượu chiếm 2/3 lọ rồi đậy nắp kỹ, ngâm 100 ngày sau là sử dụng được.
Tỏi cô đơn là một loại tỏi quí được trồng trên đất Phù Yên. Tỏi này có mùi vị và công dụng rất đặc biệt. Ngoài việc dùng để ăn Tỏi cô đơn còn dùng ngâm rượu để trong nhà làm thuốc gia truyền chữa và phòng ngừa được nhiều bệnh. Tỏi nổi tiếng nhất được trồng là ở xã Gia Phù, huyện Phù Yên.
Phát huy tiềm năng lợi thế về khí hậu, thổ nhưỡng, các xã vùng Mường của huyện Phù Yên đã tập trung phát triển cây ăn quả có múi, trong đó chủ lực là loại cam và quýt ngọt.
Dưa mèo là giống dưa chuột quả to đến mức kỷ lục: quả to nhất cân được 2,1kg, quả nhỏ nhất cũng nặng tới 500g. Giống có vỏ quả trơn bóng, màu xanh sáng xen lẫn những vết sọc xanh mờ, đặc trưng của dưa chuột. Quả dài 25-30cm, đường kính quả to nhất đo được 8,5cm, ruột trắng, cùi dày, nhiều hạt. Nhiều người được mời nếm thử đều tỏ ra thích thú. Giống dưa mèo ăn giòn, ngọt mát có mùi thơm đặc trưng của dưa chuột.
Dưa mèo là giống dưa chuột địa phương quả to do bà con dân tộc người H’Mông thuộc các tỉnh vùng cao Tây Bắc như Sơn La, Lai Châu, Điện Biên…gây trồng và giữ giống từ lâu đời. Tại Sơn La, loại dưa này do bà con người Mông ở xã Vân Hồ, huyện Mộc Châu trồng xen trong các nương ngô, nương lúa vừa để lấy rau ăn, vừa đem bán cho khách du lịch ven quốc lộ hoặc các khách sạn, nhà hàng để tăng thêm nguồn thu. Thường trồng vào đầu mùa mưa, tháng 2-3 để thu hoạch cùng với ngô tháng 6-7, mỗi cây dưa mèo cho 2-3 quả, mỗi sào thường cho sản lượng 200-300 kg.
Cách khu vực bản Áng chừng một km, có một khu vực mà tại đó vườn hoa lan và dâu tây hấp dẫn được ươm trồng thử nghiệm và cho ra trái từ vài năm nay. Dâu tây dược trồng thử nghiệm ở Mộc Châu cách đây đã 4-5 năm, đến nay nó đã khẳng định được chỗ đứng của mình bởi phù hợp với chất đất, khí hậu. Nhiều nhà vườn hiện đang mở rộng diện tích trồng để xuất về các thành phố và chế biến thành mứt, rượu…
Dâu tây được ươm trồng thử nghiệm tại Mộc Châu trong vài năm nay và thu hoạch được kết quả khả quan do phù hợp với chất đất cao nguyên cùng khí hậu miền núi mát mẻ quanh năm. Giống với thời tiết ở Đà Lạt nhưng ít mưa hơn, cao nguyên Mộc Châu đã bước đầu cho ra những trái dâu ngon lành nhưng chưa được bày bán nhiều.
Hiện nay, huyện Mộc Châu có khoảng 3.000 ha chè các loại khác nhau. Những đồi chè mơn man, bát ngát đã biến Mộc Châu trở thành một viên ngọc xanh thơ mộng. Và cây chè cũng ngày càng gắn bó với cuộc sống của các dân tộc nơi đây. Đến nay, loại cây này là một trong những biểu tượng của cao nguyên Mộc Châu.
Bên cạnh đó, khách du lịch còn được thưởng thức hương vị các loại trà nổi tiếng nhất của cao nguyên Mộc Châu. Đó là San Tuyết - loại trà được chế biến từ cây chè vài trăm tuổi ở đây. Ngoài ra còn có trà Ô Long, trà Kim Tuyên… mỗi loại đều vị khác nhau nhưng không thể lẫn với các loại chè khác trong cả nước
Với hàng trăm con bò sữa được nuôi ngay trên nông trường, các sản phẩm làm từ sữa là một trong những thứ bạn nên thử khi đặt chân tới Mộc Châu. Nếu có cơ hội hãy tận hưởng 1 ly sữa tươi nguyên chất đun nóng ngay khi vừa được vắt. Những sản phẩm làm từ sữa bò khác mà bạn cũng nên thử là sữa chua (không phải loại đóng hộp bán trong siêu thị), bơ hoặc váng sữa … bạn có thể mua những sản phẩm này trong bất kỳ nhà hàng nào trên đường vào Thị trấn.
Gọi là Khoai sọ mán bởi nó được người Dao trồng, và cũng chỉ có mảnh đất có người Dao sống loại củ này mới ngon. Khoai sọ mán có nguồn gốc, hình thù, màu sắc không giống các loại khoai khác.Có khi đó là nét làm nên sự đặc sắc. Theo nhiều người thì có mua khoai về trồng cũng không có củ, chỉ người Dao Mộc Châu trồng mới được, và cũng chỉ người Dao một số nơi như: Chiềng Sại, Chiềng Chung… trồng mới năng suất. Chả biết phải thế không mà đi nhiều nơi, nhìn thấy và ăn nhiều loại khoai sọ, chẳng đâu thấy khoai sọ mán giống ở Mộc Châu. Nó không tròn, nhỏ như khoai bon, không có màu tim tím tròn trĩnh như khoai môn. Khoai sọ mán liệt vào loại củ dị dạng được. Nó chẳng có hình thù nào mà gọi tên. Các mầm củ cứ đẻ ra lộn xộn thành những u, những mấu và to dần lên.
Sơn La là miền đất còn hoang sơ thuần khiết của rừng, của núi, của những dòng suối nước trong veo, của những thắng cảnh thiên nhiên hùng vĩ và cả tấm lòng chân chất, hiếu khách của người dân sở tại. Mùa xuân về, hoa ban, hoa đào, hoa mơ, hoa mận nở trắng khắp núi rừng Tây Bắc càng tô đẹp thêm cho quê hương giàu truyền thống cách mạng và bản sắc văn hoá.
Đến với Sơn La, bạn sẽ được ngắm nhìn một vùng núi non hùng vĩ và khám phá về giá trị văn hóa đặc sắc của các dân tộc vùng Tây Bắc, cũng như cuốn hút trong vòng xòe, ngây ngất say trong men rượu cần, cùng thả hồn theo ánh lửa bập bùng và giọng hát ngọt ngào, vang xa trong đêm hội nhạc rừng.
Xem thêm bài viết : Các lễ hội ở tại Sơn La (Cập nhật 10/2024)
Ngoài các địa danh du lịch nổi tiếng với giới du lịch bụi như Mộc Châu, Ngọc Chiến Mường La, Tà Xùa Bắc Yên … thì Sơn La còn có vô vàn địa điểm thú vị khác đang chờ bạn khám phá. Nằm trong vùng Tây Bắc và giáp với khá nhiều tỉnh miền núi phía Bắc, khi đi phượt Sơn La các bạn có thể sắp xếp thời gian và lập lịch trình để kết hợp đi khá nhiều địa điểm khác để tiết kiệm thời gian trong cùng một chuyến đi.
Ngày 1 : Hà Nội - Hòa Bình - Mộc Châu (190km)
- 7h00 : Xuất phát tại Hà Nội, đi theo hướng quốc lộ 6 hướng đi Hòa Bình - 10h00 : Nghỉ ăn trưa tại đèo Thung Khe - 13h00 : Lên tới địa phận Mộc Châu, vào chơi bản Thông Cuông, Pa Phách - Tối về nghỉ ở Thị trấn Mộc Châu hoặc Thị trấn Nông trường Mộc Châu
Ngày 2 : Mộc Châu - Hà Nội (190km)
- 7h00 : Ăn sáng - 7h30 : Di chuyển đi tham quan Đồi chè trái tim, Khu vực Rừng thông bản Áng - 12h00 : Từ Mộc Châu quay ngược lại Hà Nội, dừng ăn ở một số quán ăn nổi tiếng trên Quốc lộ 6 - 13h30 : Mộc Châu - Hà Nội. Khoảng 18h về đến Hà Nội
Ngày 1 : Hà Nội - Nghĩa Lộ - Đèo Khau Phạ - Nậm Khắt - Ngọc Chiến
- 7h00 : Xuất phát từ Hà Nội đi theo hướng đường 32 lên cầu Trung Hà - Thanh Sơn - Văn Chấn - Nghĩa Lộ. 12h00 Nghỉ ăn trưa ở Tú Lệ - Vượt qua đèo Khau Phạ ở ngay gần chân đèo có biển chỉ đi Nậm Khắt. Từ Nậm Khắt hỏi người dân đường đi Ngọc Chiến (Mường La). Tối ngủ ở Ngọc Chiến, ăn cơm nếp người Thái, tắm suối nóng.
Ngày 2 : Ngọc Chiến - Mường La - Sơn La - Mộc Châu
- 7h30 : Khởi hành từ Ngọc Chiến về Mường La, vào thăm nhà máy Thủy điện Sơn La. Từ Mường La tiếp tục di chuyển về Tp Sơn La. Thăm quan di tích Nhà tù Sơn La. - Nghỉ ăn trưa tại Tp Sơn La - 13h00 : Đi từ Tp Sơn La về Mộc Châu, Khám phá Đồi chè hình trái tim, Rừng thông Bản Áng …
Ngày 3 : Mộc Châu - Hà Nội
- 7h00 : Ăn sáng tại Mộc Châu. - 8h00 : Khám phá bản Thông Cuông, Pa Phách - 12h00 : Khởi hành về Hà Nội, trên đường về dừng ăn ở một số quán ăn nổi tiếng trên Quốc lộ 6
Ngày 1 : Hà Nội - Mộc Châu - Sơn La (300km)
- 7h00 - 12h00 : Di chuyển Hà Nội - Mộc Châu - Khám phá một số điểm ở Mộc Châu như Đồi chè Trái tim, Rừng thông Bản Áng - 15h00 : Di chuyển Mộc Châu - Sơn La - Tối nghỉ ở Sơn La
Ngày 2 : Sơn La - Quỳnh Nhai - Than Uyên - Mù Cang Chải (200km)
- Buổi sáng dậy sớm tham quan di tích Nhà tù Sơn La - Từ Tp Sơn La đi theo tỉnh lộ 107, đến đoạn cắt QL 279 thì rẽ sang đi về phía Than Uyên. Đi theo lộ trình này để khám phá Quốc lộ 279 là tuyến đường huyết mạch liên tỉnh nối các tỉnh miền núi phía Bắc là Quảng Ninh, Bắc Giang, Lạng Sơn, Bắc Kạn, Tuyên Quang, Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Sơn La và Điện Biên với nhau. Tên con đường cũng là thời điểm được thi công tháng 2/1979.
Ngày 3 : Mù Cang Chải - Hà Nội
- Khám phá Mù Cang Chải, tham quan các điểm xung quanh như La Pán Tẩn, Chế Cu Nha - Trên đường về Hà Nội tiếp tục khám phá Tú Lệ, Bản Lìm Mông, Đèo Khau Phạ - Chiều tối có mặt tại Hà Nội
Ngày 1 : Hà Nội - Hòa Bình - Mai Châu (130km)
- 7h00 : Khởi hành từ Hà Nội - 9h00 : Lên tới Hòa Bình, tham quan thủy điện Hòa Bình - 10h00 - 12h00 : Tiếp tục di chuyển, trên đường nghỉ chân và ăn uống tại đèo Thung Khe - 13h30 : Bắt đầu khám phá Mai Châu, tối ngủ nhà sàn và thưởng thức văn hóa người Thái
Ngày 2 : Mai Châu - Mộc Châu (70km)
- 6h00 : Dậy sớm ăn sáng và di chuyển lên Mộc Châu - 8h00 : Tới Mộc Châu và bắt đầu khám phá Mộc Châu - Tối nghỉ tại Khách sạn Công Đoàn Mộc Châu
Ngày 3 : Mộc Châu - Hà Nội (200km)
- Tiếp tục khám phá Mộc Châu - 12h00 : Ăn trưa và di chuyển Mộc Châu - Hà Nội
Lịch trình này phù hợp cho bạn nào thích chạy và khám phá, đi và về bằng 2 đường khác nhau (vẫn có đoạn giống nhau) và di chuyển bằng xe máy. Đoạn Trạm Tấu Bắc Yên đi sẽ hơi khó, đường sẽ xa hơn so với ở lịch trình trước. Đổi lại, các bạn có thể trải nghiệm chút offroad (nếu trời mưa thì cũng hơi căng), có thể ghé qua Nghĩa Lộ tắm suối nước nóng.
Ngày 1: Hà Nội - Bắc Yên (Trạm Tấu)
Chiều tối thứ 6 xuất phát từ Hà Nội, nghỉ đêm tại Bắc Yên hoặc lên thẳng Tà Xùa nếu các bạn máu. Tối ngủ tại Bắc Yên (hoặc Tà Xùa)
Ngày 2: (Tà Xùa) Bắc Yên - Trạm Tấu - Nghĩa Lộ
- Sáng thứ 7 khởi hành săn mây, chụp choẹt các điểm săn mây đẹp ở Tà Xùa. Có đủ đồ mang theo các bạn có thể dựng trại uống cafe, làm bữa đồ nướng trên núi.
- Trưa thứ 7 từ Tà Xùa di chuyển theo hướng đi Trạm Tấu, về Trạm Tấu đi thẳng về Nghĩa Lộ, tối ngủ Nghĩa Lộ. Có thể tranh thủ tắm suối nước nóng ở đây (điểm tắm suối nước nóng cách trung tâm Thị xã Nghĩa Lộ khoảng 3km theo hướng đi Mù Cang Chải)
Ngày 3: Nghĩa Lộ - QL 32 - Thu Cúc - Hà Nội
- Sáng dậy thong thả ăn sáng uống cafe ở Nghĩa Lộ, có thể ghé chợ Mường Lò kiếm vài món đặc sản Yên Bái ở đây để ăn. Từ Nghĩa Lộ lại đi ngược theo QL 32, qua đèo Khế về Thu Cúc rồi quay ngược lại Hà Nội kết thúc tròn một hành trình.
- Nếu có thừa thời gian bạn cũng có thể vòng qua đèo Lũng Lô chơi rồi vẫn quay lại QL 32 để về Hà Nội. Con đèo này là vùng giáp ranh của 3 tỉnh Sơn La - Yên Bái - Phú Thọ
Tìm trên Google:
Link nội dung: https://myphamsakura.edu.vn/phuot-son-la-a63117.html